Phát hiện và đặt tên Acrocanthosaurus

Mẫu phụ

Quận Atoka (đỏ) trong bang Oklahoma, nơi đầu tiên Acrocanthosaurus được tìm thấy

Mùa xuân năm 1940, J. Willis Stovall nhận được tin báo phát hiện nhiều mẫu xương lớn tại nông trại của Herman Arnold thuộc quận Atoka, Oklahoma. Đây là một bộ xương không hoàn chỉnh của một loài khủng long ăn thịt lớn, sau xác định là Acrocanthosaurus. Từ 1940 đến 1941, hoạt động khai quật được Work Progress Administration (một tổ chức lao động thuê tại Mĩ) thực hiện một cách không liên tục dưới sự chỉ đạo của Stovall. Địa hình rừng rú, thiếu đường đi gây không ít trở ngại cho công việc đào bới. Khu vực đào thì khá mềm với cát vàng mịn xen lẫn với các kết hạch đất sét màu xám. Tuy nhiên, hỗn hợp cát-sét bám dính vào các hóa thạch làm cho chúng trở nên khó xử lý. Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra làm hoãn tiến trình khai quật cho đến năm 1945. Lúc hoàn thành, nhóm Stovall đào được cho mẫu này, ký số MUO 8-0-S8, hai xương lưng giữa, bốn đốt sống lưng rời rạc, 13 đốt sống đuôi, tám xương sườn lưng, một xương chữ V trước, pubes trái và phải, đoạn cuối gần thân của xương đùi trái, xương chày trái, xương đốt bàn chân trái II và III cùng đốt ngón III chân trái.[1] Đây là mẫu phụ, hiện mang ký số OMNH 10147.[4]

Mẫu định danh

Trong quá trình đào mẫu phụ, nhóm của Stovall phát hiện thêm nhiều bộ xương khủng long không hoàn thiện tại chín địa điểm khác nhau trong khu vực. Đáng kể đến là một bộ xương Acrocanthosaurus, nhỏ hơn nhưng hoàn chỉnh hơn, tìm thấy tại nông trại của Cochran cách đó gần một dặm. Stovall chọn mẫu này làm gốc, kí số MUO 8-0-S9,[1] sau đổi thành OMNH 10146.[4] OMNH 10146 nằm kẹp trong đá phiến sậm đỏ nâu lẫn cát, gần như lộ thiên với chỉ vài inch đất đá phủ lên. Tuy nhiên, nó bị rễ cây trong khu vực làm hư hại phần nào. Cả hai mẫu định danh và mẫu phụ đều không hoàn chỉnh, tuy nhiên mẫu này thiếu cái gì thì được mẫu kia bổ sung. Cả hai tương hỗ tạo nên một bức tranh cốt học tương đối hoàn chỉnh cho chi này.[1]

Dựa trên mẫu OMNH 10146, Stovall và Wann Langston miêu tả và đặt tên cho giống khủng long này vào năm 1950.[1] Langston đã gọi chi này là "Acracanthus atokaensis" trong luận văn thạc sĩ chưa công bố của mình vào năm 1947,[9][10] nhưng cuối cùng tên chính thức được đổi thành Acrocanthosaurus atokensis. Acrocanthosaurus nghĩa là "thằn lằn gai sống cao", dựa trên từ Hy Lạp cổ ɑκρɑ/akra ('cao'), ɑκɑνθɑ/akantha ('gai') và σɑʊρος/sauros ('thằn lằn').[11] Loài duy nhất, A. atokensis, đặt tên theo hạt Atoka tại bang Oklahoma, nơi mà nó được tìm thấy.

Các mẫu khác

Sọ của mẫu NCSM 14345, Bảo tàng Khoa học Tự nhiên North Carolina

Sau đó người ta đào được hai mẫu khác hoàn chỉnh hơn nhiều, miêu tả vào thập niên 1990. Mẫu thứ nhất (SMU 74646) là một bộ xương không hoàn chỉnh, thiếu phần lớn hộp sọ, tìm thấy trong thành hệ Twin Mountains ở Texas, hiện nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Khoa học và Lịch sử Forth Worth.[7] Mẫu còn lại hoàn chỉnh hơn nhiều (NCSM 14345, biệt danh 'Fran'), được Cephis Hall và Sid Love đào được từ thành hệ Antlers ở Oklahoma, tái dựng bởi Viện Black Hills, South Dakota và đang được trưng bày tại Bảo tàng Khoa học Tự nhiên North CarolinaRaleigh. Đây là mẫu lớn nhất và cũng là mẫu duy nhất có hộp sọ và 2 chi trước hoàn chỉnh.[4] Các cá thể của hai mẫu OMNH 10147 và NCSM 14345 có lẽ to gần bằng nhau, do xương của chúng có cùng kích thước, trong khi xương của mẫu định danh và mẫu SMU 74646 thì nhỏ hơn nhiều.[4]

Vào năm 2012, người ta phát hiện ra một mẫu không hoàn chỉnh nữa, ký hiệu UM 20796, tại thành hệ Cloverly từ một lớp chứa xương ở Bighorn Basin miền Trung-Bắc Wyoming. UM 20796 gồm xương đùi, xương mác, 2 phần đốt sống, một phần xương mu và một số mảnh vụn, mô tả một cá thể còn trẻ. Cạnh mẫu này người ta còn tìm thấy xương vai của một con Sauroposeidon nữa. Một số mảnh xương khác của khủng long chân thú trong thành hệ Cloverly cũng có lẽ là của Acrocanthosaurus. Nói đúng hơn Acrocanthosaurus có lẽ là chi khủng long chân thú lớn duy nhất trong thành hệ này.[12]

Không chỉ ở Oklahoma, Texas, Wyoming, hóa thạch Acrocanthosaurus cũng được tìm thấy ở Arizona và một số nơi khác nữa. Người ta cho rằng một mẫu răng[13] và những vết răng tìm thấy trên xương của khủng long chân thằn lằn ở miền Nam Arizona là của Acrocanthosaurus.[14] Vài mẫu răng từ thành hệ Arundel ở Maryland cũng mang những đặc điểm hầu như giống hệt với Acrocanthosaurus, và người ta nghĩ những mẫu này đại diện cho 1 chi bà con nào đó với nó tại miền đông.[15] Nhiều mẫu răng và mẫu xương khác từ nhiều thành hệ địa chất khác nhau ở phía tây nước Mỹ cũng đã được nghĩ là của Acrocanthosaurus, nhưng phần lớn là phân loại sai;[16] Dù thế, vẫn có những bất đồng xung quanh việc này.[12]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Acrocanthosaurus http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S... http://www.wmnh.com/wmge0000.htm http://adsabs.harvard.edu/abs/1964RSPTB.248...53W http://adsabs.harvard.edu/abs/1997SciAm.277f..74T http://adsabs.harvard.edu/abs/2009NW.....96.1051B http://adsabs.harvard.edu/abs/2009PLoSO...4.4532B http://adsabs.harvard.edu/abs/2010NW.....97...71B http://adsabs.harvard.edu/abs/2011PLoSO...6E7932E http://www.geo.utexas.edu/faculty/rowe/Publication... http://www.itis.gov/servlet/SingleRpt/SingleRpt?se...